lop12c7.no1.vn - Kết Nối Cộng Đồng Rạch Kiến Online
PHONG TỤC ĂN TRẦU & BIỂU TƯỢNG TRẦU CAU TRONG LỄ CƯỚI VIỆT
Từ lâu đời, Trầu cau đã gắn liền với đời sống của người Việt. Trầu cau đượcdùng để tiếp khách hàngngày, trầu có mặt trong mỗi cuộc vui buồn của làng quê. Ngày xưa, trầu cau là vật lễ trong các lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ cưới, hỏi, lễ thọ, lễ mừng... Ngày nay, trầu cau vẫn là thứ không thể thiếu trong việc giao hiếu, kết thân, cưới hỏi..., bởi miềng trầu tuy đơn giản nhưng mang bao ý nghĩa sâu đậm trong đời sống văn hóacủa người Việt Nam. Ăn trầu là phong tục cổ truyền của người Việt và phổ biến ở vùng nhiệt đới châu Á, châu Đại Dương (ở Miến Điện trầu gọi là "kun-ya", Ấn Độtrầu gọi là "paan", Philippines trầu gọi là "nga-nga"...). Ở mỗi nơi, mỗi vùng, vật liệu ăn trầu có khác nhau nhưng sự khác nhau đó không đáng kể, về cơ bản là dùng hỗn hợp lá trầu không, cau, vôi. Ăn trầu có công dụng làm thơm miệng và là nghi thức xã giao cùng lễ nghi ở Nam Á và Đông Nam Á. Sách xưa ghi: "Ăn trầu làm thơm miệng, hạ khí, tiêu cơm". Với người Việt Nam, trầu cau còn là biểu hiện nét văn hóa độc đáo của cộng đồng. Miếng trầu tuy rẻ tiền nhưng chứa đựng nhiều tình cảm, ý nghĩa, giàu nghèo ai cũng có thể có, vùng nào cũng có. Dân gian có câu "Miếng trầu là đầu câu chuyện", miếng trầu thắm têm vôi nồng luôn là sự bắt đầu, sự khơi mở tình cảm. Miếng trầu đi đôi với lời chào, lời thăm hỏi hay làm quen: "Tiện đây ăn một miếng trầu Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là". Quý nhau mời trầu, ghét nhau theo phép lịch sự cũng mời nhau ăn trầu nhưng "cau sáu bổ ra thành mười". Đối với các nam nữ thanh niên xưa thì miếng trầu là nguyên cớ để bắt đầu một tình yêu, một cuộc hôn nhân "Miếng trầu nên dâu nhà người". Trong việc cưới xin, nhận lễ vật trầu cau là đồng nghĩa với việc nhận lời cầu hôn, là giao ước giữa hai họ. Trong mâm lễ vật cưới hỏi của nhà trai không thể thiếu buồng cau, tệp trầu và vôi. Đó là một nghi thức độc đáo của người Việt. Tục ăn trầu ở Việt Nam có khi nào thì chưa ai xác minh được một cách chính xác, chỉ nghe tương truyền là có từ thời Hùng Vương và gắn liền với một câu chuyện thương tâm mà thắm đượm nghĩa tình, đó là truyện "Trầu cau". Truyện kể rằng:
Ngày xưa, một nhà nọ có Tân và Lang là hai anh em ruột, đặc biệt dáng người và mặt mày giống nhau như đúc, đến nỗi chính người nhà cũng nhiều phen nhầm lẫn. Cha họ là một người cao to nhất trong vùng đã từng được vua Hùng triệu về Phong-châu ban thưởng và đặt tên là Cao. Từ đó gia đình lấy tiếng "Cao" làm tên họ. Hai anh em lớn lên thì cha mẹ nối nhau qua đời. Cả anh lẫn em quyến luyến nhau không chịu rời nửa bước. Người cha trước khi mất có gửi gắm Tân cho một đạo sĩ họ Lưu. Nhưng khi Tân đến theo học thì Lang không chịu ở nhà một mình, chàng cũng cố xin cùng được học với anh một thể. Nhà họ Lưu có một cô con gái cũng cùng lứa tuổi với họ. Để tìm hiểu người nào là anh người nào là em, một hôm cô gái họ Lưu bày ra một mẹo nhỏ. Giữa lúc họ đang đói, nàng chỉ dọn cho họ một bát cháo với một đôi đũa. Đứng sau khe vách, nàng thấy người này nhường cháo cho người kia ăn. Nàng lẩm bẩm: "à ra anh chàng vui tính kia là anh!". Từ đó giữa Tân và cô gái có nhiều cuộc gặp gỡ. Tình yêu giữa hai người mỗi ngày một khăng khít. Thấy thế, đạo sĩ họ Lưu vui lòng gả con cho Tân. Sau khi cưới, hai vợ chồng đến ở một ngôi nhà mới, có Lang ở chung. Từ ngày lấy vợ, Tân tuy vẫn chiều chuộng em nhưng không âu yếm em như trước nữa. Trước kia Lang thường được anh chăm sóc nhưng bây giờ thì chàng có nhiều ngày cô đơn. Lang nhận thấy nhiều khi Tân muốn lánh mình. "Phải rồi, anh ấy mê vợ quên ta". Trong lòng Lang đầy chán nản buồn bực. Một hôm Lang và Tân cùng lên nương đến tối mịt mới về. Lang về trước. Chàng vừa bỏ chân lên ngưỡng cửa thì vợ Tân từ trong buồng chạy ra ôm chầm lấy mình. Lang kêu lên. Cái nhầm của chị dâu làm cho cả hai người cùng ngượng nghịu xấu hổ. Giữa lúc đó thì Tân bước vào nhà. Từ đây Lang lại biết thêm một tính tình mới của anh. Tân ghen em. Cái ghen càng tăng thêm sự hững hờ của Tân đối với chàng. Lang vừa giận vừa thẹn. Chàng muốn bỏ nhà ra đi cho bõ ghét. Một hôm trời mới mờ sáng, Lang quyết định khởi hành. Chàng cứ theo con đường mòn đi mãi, trong lòng đầy bực bội oán trách. Đi luôn mấy ngày đường, Lang tới bờ một con sông lớn. Thấy nước chảy xiết, chàng lấy làm ngại ngùng. Xung quanh không nghe qua một tiếng gà gáy chó sủa. Nhưng Lang quyết không chịu trở lại. Lang ngồi cúi gục trên bờ, ôm mặt khóc. Chàng khóc mãi, khóc mãi, đến nỗi những con chim đi kiếm ăn khuya vẫn còn nghe tiếng nức nở. Sáng hôm sau, Lang chỉ còn là một cái xác không hồn. Chàng đã hóa đá. Tân thấy mất hút em thoạt đầu không để ý. Mãi sau vẫn không thấy em về, Tân bổ đi tìm các nhà quen nhưng cũng không thấy tăm dạng. Biết là em bỏ đi vì giận mình, chàng lấy làm hối hận. Hôm sau nữa, cũng không thấy về, Tân hoảng hốt để vợ lại nhà, cất bước đi tìm. Sau mấy ngày, chàng đã đến bờ một con sông rộng. Không có cách gì qua được, Tân đi men dọc sông, cuối cùng thấy em đã hóa thành đá. Tân đứng bên cạnh hòn đá khóc mãi cho đến lúc chỉ còn có tiếng nước cuồn cuộn chảy dưới bờ mà thôi. Tân chết và hóa thành một cây thân mọc thẳng lên trời, bên cạnh hòn đá. Vợ Tân chờ mãi không thấy chồng về, cũng bỏ nhà đi tìm. Nhưng cuối cùng con sông nọ cũng ngăn cản bước chân của nàng. Người đàn bà ấy ngồi lại bên cạnh cây, khóc cạn cả nước mắt. Và sau đó nàng chết hóa thành một cây dây quấn quanh lấy cây kia. Đợi mãi không thấy ba người về, vợ chồng đạo sĩ nhờ mọi người chia nhau tìm kiếm. Trước hòn đá và hai cây lạ, họ chỉ còn biết dựng miếu thờ cả ba người trẻ tuổi ở ven sông. Nhân dân quanh vùng gọi là miếu "anh em hòa thuận, vợ chồng tiết nghĩa". Về sau, một năm nọ trời làm hạn hán rất dữ. Mọi cây cỏ đều khô héo cả. Duy hai cây mọc bên cạnh hòn đá trước miếu là vẫn xanh mượt. Mọi người cho là linh dị. Vua Hùng một hôm ngự giá qua xứ đó. Khi đi qua trước miếu, vua hơi ngạc nhiên vì cảnh lạ cây lạ: "Miếu này thờ vị thần nào? Mấy loại cây này ta chưa từng thấy bao giờ? " Để trả lời câu hỏi của vua, Lạc tướng cho gọi mấy cụ già ở quanh vùng đến hỏi. Hùng Vương càng nghe, không ngăn được sự cảm động. Vua vạch lá trèo lên nhìn khắp mọi chỗ. Đoạn, vua sai một người trèo cây hái quả xuống nếm thử. Vị chát không có gì lạ. Nhưng khi nhai với lá cây dây thì một vị là lạ đến ở đầu lưỡi: nó vừa ngon ngọt, vừa thơm cay. Tự nhiên có một viên quan hầu kêu lên: "Trời ơi! Máu!" Mọi người giãn ra kinh ngạc. Thì ra những bãi nhai quả và lá của hai thứ cây đó một khi nhổ xuống đá bỗng đỏ ối ra như máu. Vua sai lấy cả ba thứ nhai lẫn với nhau thì bỗng thấy người nóng bừng như có hơi men, môi đỏ tươi, sắc mặt hồng hào tươi đẹp. Vua bảo:"Thật là linh dị! Đúng là họ rồi! Tình yêu thương của họ thật là nồng nàn thắm đỏ". Từ đó vua Hùng ra lệnh cho mọi nơi phải gây giống cho nhiều hai loại cây ấy. Điều đáng chú ý là luật của nhà vua bắt buộc trai gái khi kết hôn thế nào cũng phải tìm cho được ba món: trầu, cau và vôi cho mọi người nhai nhai nhổ nhổ một tí để ghi nhớ tình yêu không bao giờ phai lạt. Vì thế từ đó dân Việt mới có tục ăn trầu.
Trầu cau đã gắn liền với sinh hoạt của người Việt từ lâu đời, trầu dùng để tiếp khách hàng ngày như bát nước chè xanh, điếu thuốc lào, trầu có mặt trong mỗi cuộc vui buồn của làng quê. Hơn thế, trầu cau là vật lễ mà ngày xưa không thể thiếu trong các buổi lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ cưới, hỏi, lễ thọ, lễ mừng... Từ đó, nét tài hoa của người Việt còn thể hiện trong việc têm miếng trầu. Nhìn miếng trầu được têm người thưởng thức không chỉ hiểu rõ tình cảm của người mời trầu mà còn đánh giá được sự khéo tay của người têm trầu. G.S Trần Quốc Vượng viết: "ăn trầu, càng biết được "tính nết" người têm nó. Giản dị hay cầu kỳ. Đậm đà hay nhạt nhẽo, do chất lượng vôi bôi trên lá trầu, và khi có miếng trầu "ở giữa đậm quế hai đầu thơm cay". Têm trầu là cả một nghệ thuật, nhất là trong lễ cưới có trầu têm cánh phượng có cau vỏ trổ hoa... Bày trầu lên đĩa, hạt cau phải sóng hàng, trầu vào giữa, đĩa trầu bày năm miếng hay mười miếng, khi đưa phải bưng hai tay. Tế gia tiên thì trầu têm, còn tế lễ thiên thần thì phải có ba lá trầu phết một tí vôi trên ngọn lá và ba quả cau để nguyên. Khi mời trầu, miếng trầu không chỉ gói gọn trong nó tình cảm nồng thắm mà còn thể hiện cái nết khéo tay, hay mắt của người têm.
Trong dân gian, một cơi trầu têm khéo léo có thể nói lên tài hoa của một cô gái. Qua đó còn phần nào thấy được cả nề nếp giáo dục của gia đình. Chỉ là têm một miếng trầu mà dân gian đã tinh tế sáng tạo ra nhiều kiểu dáng khác nhau: trầu cánh phượng, trầu cánh kiếm, trầu mũi mác, trầu cánh quế... Tùy hoàn cảnh, tùy tình huống, miếng trầu được têm theo những cách khác nhau và ý nghĩa tượng trưng của từng kiểu dáng cũng thật rõ ràng. Miếng trầu có khi là vật giao duyên giữa đôi trai gái: "Trầu vàng nhá lẫn trầu xanh Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời" Nam nữ gặp nhau thường mời trầu nhau, thăm hỏi nhau để tạo ấn tượng tốt đẹp ban đầu. Mời trầu không ăn thì trách móc nhau: "Đi đâu cho đổ mồ hôi Chiếu trải không ngồi trầu để không ăn". "Thưa rằng bác mẹ em răn Làm thân con gái chớ ăn trầu người". Khi đã quen hơi bén tiếng, trai gái cũng mượn miếng trầu để tỏ tình, nhất là các chàng trai nhờ miếng trầu mà tán tỉnh: "Từ ngày ăn phải miếng trầu Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu". "Cho anh một miếng trầu vàng Mai sau anh trả cho nàng đôi mâm". Trong hôn nhân, trầu cau có một vai trò quan trọng. Tuy miếng trầu không đắt đỏ gì "Ba đồng một mớ trầu cay" nhưng "Miếng trầu nên dâu nhà người". Trong lễ cưới, hỏi không bao giờ thiếu miếng trầu quả cau, trong mâm cỗ cúng tơ hồng - vị thần của hôn nhân cũng vậy, bao giờ cũng phải có buồng cau và tệp lá trầu. Người ta xem buồng cau có đẹp không, cuống lá trầu có tươi không mà ước đoán được rằng đôi lứa ấy có đẹp duyên không. Theo tục lệ, nhà ai có con gái gả chồng, sau khi ăn hỏi xong cũng đem trầu cau biếu hàng xóm và bà con nội ngoại. Vì miếng trầu là tục lệ, là tình cảm nên ăn được hay không cũng không ai từ chối. Miếng trầu nồng thắm luôn có mặt trong hôn lễ là sự khơi gợi, nhắc nhở mọi người hướng về một tình yêu son sắt, một cuộc sống vợ chồng gắn bó, thủy chung và luôn lấy nghĩa tình làm trọng: "Miếng trầu ăn nặng là bao Muốn cho đông liễu, tây đào là hơn". Trầu này trầu nghĩa trầu tình Trầu nhân, trầu ngãi, trầu mình lấy ta".
Tục ăn trầu còn gắn với tục nhuộm răng đen, tuy hai tập tục này là hai khía cạnh khác nhau nhưng lại bổ sung cho nhau. Ngày nay, các phong tục tập quán mất đi khá nhiều nhưng trầu cau vẫn là thứ không thể thiếu trong việc giao hiếu, kết thân, cưới hỏi... của người Việt, bởi miềng trầu tuy đơn giản nhưng mang bao ý nghĩa sâu đậm trong đời sống văn hóa của người Việt Nam . TRẦU TÊM CÁNH PHƯỢNG THẮM TÌNH LỨA ĐÔI Trong tiềm thức và phong tục của người Việt, miếng trầu có vai trò rất quan trọng đặc biệt là trong việc tác thành hạnh phúc lứa đôi. Thế nên, không biết tự bao giờ trong dân gian đã lưu truyền rất nhiều câu ca liên quan đến miếng trầu như : “Có phải duyên nhau thì thắm lại”, “Ba đồng một mớ trầu cay”, “Vì trầu thắm quá làm lòng em say”, “Miếng trầu nên dâu nhà người” hay “Miếng trầu là đầu câu chuyện”… Miếng trầu làm mọi người gần gũi với nhau hơn, cởi mở với nhau hơn. Với người lạ, miếng trầu để làm quen, kết bạn, với người quen, miếng trầu là tri ân, tri kỷ. Trong miếng trầu nhỏ bé nhưng hội tụ rất nhiều yếu tố, đủ hương, đủ vị. Một miếng trầu bao gồm một lá trầu quệt ít vôi tôi trắng ngần, têm gọn gàng, tỉa hình cánh phượng, cuốn ăn cùng lát vỏ đỏ au và miếng cau bổ sáu. Nếu đứng riêng rẽ, đó chỉ là cây, là lá, là đá . Nhưng khi hợp lại, chúng hoà quyện, cộng sinh vào nhau, được ấp ủ trong môi miệng con người thì tất cả bỗng biến đổi, trở nên đằm thắm, rực rỡ hơn. Khi ăn, ban đầu miếng trầu mang vị chát, hơi đắng nhưng dễ chịu và có cung bậc được tạo ra bởi sự tươi ngọt từ phần mềm của cau, vị bùi của vỏ và vị nồng nàn của vôi. Tất cả những hương vị và sự hòa quyện đó khiến người ăn có cảm giác lâng âng gần như say rượu, say nước chè xanh hay say thuốc lào.
Miếng trầu không chỉ đơn giản là thú ăn chơi bởi khi ăn trầu có mùi thơm, trừ được vi khuẩn trong miệng, giúp các bà, các chị nhuộm răng đen. Miếng trầu còn tượng trưng cho tình yêu chung thủy lứa đôi, nó cũng là “bùa mê”, là chiếc cầu đưa đẩy thiếp và chàng nên duyên chồng vợ. Khi nam nữ bên nhau, mời nhau miếng trầu cay, môi người con gái đỏ và bóng lên, đôi má ửng hồng, nét đẹp thiếu nữ càng khiến các chàng trai đắm say. Khi duyên đã bén, cũng chính miếng trầu đi đầu, tác hợp cho lứa đôi đồng thời là sợi dây kết chặt mối lương duyên cho đôi trai gái thành vợ thành chồng. Trong mâm lễ sang thưa chuyện cùng nhà gái, nhà trai dù giàu nghèo thế nào cũng không thể thiếu lá trầu, quả cau. Trong tất cả các nghi thức, lễ nghi như dạm ngõ, ăn hỏi và cuối cùng là lễ cưới sự hiện diện của miếng trầu là điều không thể thiếu. Khi đám cưới kết thúc, cô dâu, chú rể bưng khay trầu mời họ hàng, khách khứa như thông báo chính thức rằng họ đã nên vợ, thành chồng.
Ngày nay, mặc dù miếng trầu không còn xuất hiện nhiều trong giao tiếp hàng ngày, người ta không còn mời nhau ăn trầu nữa mà thay vào đó là những đồ ăn thức uống của thời hiện đại, nhưng hình ảnh người bà ngồi bên hiên nhà bỏm bẻm nhai trầu, vừa quạt vừa kể chuyện cổ tích cho đàn cháu nhỏ nghe sẽ vẫn khắc sâu trong tâm tưởng mỗi chúng ta. Tục lệ ăn trầu mãi mang đậm nét bản sắc dân tộc và tính nhân văn trong cuộc sống của dân tộc Việt Nam. Và đặc biệt, điều đáng tự hào hơn đó là trải qua bao đổi thay, nhiều giá trị văn hóa đã mai một do sự tác động của cuộc sống đô thị song trong tập tục cưới hỏi của người Việt, miếng trầu vẫn giữ nguyên giá trị và được con cháu nâng niu, gìn giữ.
Chữ ký của nhockon767
TRẦU CAU...!!!
Trang 1 trong tổng số 1 trang
* Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc. * Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết. * Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình.
...-Nếu chèn smilies có vấn đề thì bấm A/a trên phải khung viết bài-...