Tiêu đề: Đề cương ôn thi tốt nghiệp Ngữ văn 12. P2 Sun Apr 24, 2011 11:50 am
Tiêu Đề : Đề cương ôn thi tốt nghiệp Ngữ văn 12. P2
lop12c7.no1.vn - Kết Nối Cộng Đồng Rạch Kiến Online
TÂY TIẾN – (QUANG DŨNG)
1. Hoàn cảnh sáng tác bài TÂY TIẾN – Quang Dũng . “Tây Tiến” là đơn vị bộ đội được thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào ,tiêu hao lực lượng địch ở thượng Lào cũng như miền Tây Bắc bộ VN. Địa bàn hoạt động khá rộng từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng về Thanh Hóa. Lính Tây Tiến phần đông là sinh viện, học sinh Hà Nội. Quang Dũng là đại đội trưởng. Năm 1948, sau một năm hoạt động đoàn bình tây tiến về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52, Quang Dũng chuyển sang đơnvị khác. Tại đại hội thi đua toàn quân (Phù Lưu Chanh) Quang Dũng viết bài thơ, lúc đầu có tên “NHỚ TÂY TIẾN” .Bài thơ in lần đầu năm 1949 – đến năm 1957 được in lại và đổi tên “TÂY TIẾN” . 2. Tìm hiểu bài thơ • Đoạn 1 (Từ câu 1 đến câu 14) Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ - thơ mộng • Quang Dũng là một nghệ sĩ tài hoa nhiều mặt: viết văn xuôi, làm thơ và cả hội họa. Thơ ông viết ít nh¬ưng l¬ưu đ¬ược ấn t¬ượng sâu trong lòng ng¬ười đọc vì vẻ đẹp lãng mạn, tài hoa. Viết về đề tài ng¬ười lính Quang Dũng khá thành công ở bài thơ “Tây Tiến” • “Tây Tiến” thể hiện lối cảm nghĩ riêng đó chính là tấm lòng Quang Dũng đối với một thời lịch sử đã qua. Cả bài thơ là một nỗi nhớ dài: Nhớ những miền đất mà tác giả đã từng qua, nhớ những đồng đội thân yêu, nhớ những kỷ niệm ấm áp tình quân dân kháng chiến. Tất cả những điều ấy đ¬ược thể hiện bằng cái nhìn đầy lãng mạn của ng¬ười lính. Đoạn thơ đầu gồm 14 câu như¬ những th¬ước phim quay chậm tái hiện địa bàn chiến đấu của ngư¬ời lính Tây Tiến. Đó là thiên nhiên Tây Tiến, là những ngư¬ời lính Tây Tiến cùng những kỷ niệm ấm tình quân dân. • Mở đầu đoạn thơ Quang Dũng nhớ ngay đến dòng sông Mã. Dòng sông ấy hiện lên trong bài thơ nh¬ một nhân vật, chứng kiến mọi gian khổ, nỗi buồn, niềm vui, mọi chiến công và mọi hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Sông Mã gắn liền với miền đất đã từng qua, những kỷ niệm từng trải của đoàn quân Tây Tiến. Nhắc tới sông Mã cũng là nhắc tới núi rừng thiên nhiên Tây Bắc. Nhà thơ nhớ về những miền đất trong nỗi nhớ “chơi vơi”. “Chơi vơi” là nỗi nhớ không có hình, không có l¬ượng, không ai cân đong đo đếm đ¬ược nó lửng lơ mà đầy ắp ám ảnh tâm trí con ngư¬ời, khiến con ngư¬ời nh¬ư sống trong cõi mộng. Chữ “chơi vơi” hiệp vần với chữ “ơi” ở câu thơ trên khiến cho lời thơ thêm vang vọng. • Trong nỗi nhớ “chơi vơi” ấy hiện lên cả một không gian xa xôi hiểm trở. Tính chất “xa xôi” thể hiện rõ ở một số địa danh: Sài Khao, M-ường Lát, Pha Luông, M¬ường Hịch, Mai Châu. Nghe tên đất đã lạ vì đó là những vùng sâu, vùng xa của các dân tộc ít ng¬ười từ Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình. Những địa danh này đi vào nỗi nhớ của nhà thơ bởi vậy nhớ về Tây Tiến thì cũng chính là nhớ về những vùng đất heo hút, hiểm trở đầu tiên. Điều này cũng dễ hiểu. Bởi những ngư¬ời lính Tây Tiến vừa mới ra đi kháng chiến từ một mái tr¬ường, một góc phố nào đó của thủ đô Hà Nội thì ấn t¬ượng sâu đậm nhất về Tây Tiến trong họ lẽ đ¬ương nhiên là những gian khổ, những địa danh nêu trên càng trở nên xa hơn khi nó gắn liền với hình ảnh “s¬ương lấp”, “đoàn quân mỏi” hiện về “trong đêm hơi”. • Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” với điệp từ “dốc” gối lên nhau cộng với tính từ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” làm sống dậy con đ¬ường hành quân hiểm trở, gập ghềnh, dài vô tận. Âm điệu câu thơ như¬ cũng khúc khuỷu như¬ bị cắt đoạn như¬ đư¬ờng núi khúc khuỷu, có đoạn lên cao chót vót có đoạn xuống thăm thẳm. Con đư¬ờng mà ng¬ười lính Tây Tiến phải trải qua cao tới mức bóng ngư¬ời in trên những cồn mây, đến mức “súng ngửi trời” • Đây là cách nói thậm x¬ưng thể hiện sự độc đáo của Quang Dũng. Nếu chỉ thấy súng chạm trời thì ta mới chỉ thấy đ¬ược cái thế cao của dốc còn hình ảnh “Súng ngửi trời” hàm chứa một ý nghĩa khác. Đó là vẻ tinh nghịch, chất lính ngang tàng nh¬ư thách thức cùng gian khổ của ngư¬ời lính Tây Tiến. Điều này khiến cho hình ảnh ng¬ười lính Tây Tiến đ-ược nâng cao rõ nét trong một không gian rộng lớn vời vợi, và đây cũng chính là chất lãng mạn bay bổng của tâm hồn người lính Tây Tiến, của Quang Dũng. Câu thơ còn gợi cho ta cảm giác về độ cao, độ sâu không cùng của dốc. Ta bắt gặp ý thơ này ở câu thơ: “Ngàn th¬ước lên cao, ngàn th¬ước xuống”. Cả hai câu đều ngắt nhịp 4/4. Thực ra ý của câu sau điệp lại ý của câu tr¬ước nh¬ưng lối điệp vô cùng sáng tạo, khiến cho ngư¬ời đọc khó phát hiện ra. ý thơ gấp khúc giữa hai chiều cao thăm thẳm, sâu vòi vọi, dốc tiếp dốc, vực tiếp vực nhấn mạnh địa bàn hoạt động của những ng¬ười lính vô cùng khó khăn, hiểm trở, vư¬ợt qua những khó khăn, hiểm trở đó đã là một kỳ tích của những ng¬ười lính. • Tổng hợp những chi tiết đã phân tích ở trên ta có đ¬ược một phần chính về bức tranh của thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại, hiểm trở mà đầy sức hút. Những câu thơ phần lớn là thanh trắc càng gợi cái trúc trắc, trục trặc, tạo cảm giác cho độc giả về hơi thở nặng nhọc, mệt mỏi của ng¬ười lính trên đường hành quân. Giữa những âm tiết toàn thanh trắc ấy chen vào câu thơ gần cuối đoạn thơ dài man mác toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông m¬ưa xa khơi”. Đây chính là hình ảnh thơ mộng mà hoang dã về thiên nhiên Tây Tiến. Thiết nghĩ nếu câu thơ này vì lí do nào đó mà không có thì sức hấp dẫn của đoạn thơ sẽ giảm đi rất nhiều bởi lẽ chính câu thơ tạo nên nét thứ hai cho bức tranh về thiên nhiên Tây bắc. Thiên nhiên Tây bắc hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở nh¬ưng đầy thơ mộng. Chất tài hoa của Quang Dũng đ¬ược thể hiện khá trọn vẹn ở chỗ nhà thơ nhắc đến mư¬a rừng mà tạo cảm giác đứng tr¬ước biển lại người lên vẻ đẹp của ng¬ười lính chân đứng trên dốc cao đầu gội trong mư¬a lớn. Cứ một nét bút gân guốc lại xen vào một nét bút mềm mại, trữ tình tạo cho bức tranh về thiên nhiên Tây Tiến cân đối hài hòa. • Nhắc lại những thử thách khắc nghiệt cũng là để nói đến sức chịu đựng bền bỉ của con ng¬ười. Từ đây Quang Dũng vụt nhớ đến hình ảnh những đồng đội, dù can tr¬ường trong dãi dầu nh¬ưng có khi gian khổ đã v¬ượt quá sức chịu đựng khiến cho ng¬ười lính đã gục ngã, nh¬ưng gục ngã trên t¬ư thế hành quân. “Anh bạn dãi dầu không b¬ước nữa Gục trên súng mũ bỏ quên đời” • Nói đến cái chết mà lời thơ cứ nhẹ như¬ không. Dường nh¬ư ngư¬ời lính Tây Tiến chỉ bỏ quên đời một lát rồi lại bừng tỉnh và b¬ước tiếp. Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách biểu hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa tr¬ương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nh¬ưng sống và chiến đấu trong một địa bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi. • Vùng đất xa xôi hiểm trở với những nét dữ dội hoang dã: Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm M¬ường Hịch cọp trêu ngư¬ời • Cảnh hiểm trở cheo leo nh¬ưng đâu có tĩnh lặng thanh bình... Với những từ “oai linh”, “gầm thét” thác nư¬ớc như¬ một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và những con hổ đi lang thang hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ. • Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già nhà thơ bỗng nhớ lại một kỷ niệm ấm áp tình quân dân. Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. • Trong gian khổ thiếu thốn ng¬ười ta càng nâng niu càng quí trọng nghĩa tình. Hình ảnh những nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu t¬ượng cho ng¬ười dân Tây Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế. Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng. Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm xúc ấm nóng. Cái ấm nóng của tình ng¬ười. Đây chính là chất lãng mạn bay bổng của đoạn thơ và nó như¬ một nét vẽ tư¬ơi sáng của bức tranh. • Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn thơ nh¬ư một bức tranh thủy mặc cổ điển đ¬ược phác thảo theo lối tạo hình phư¬ơng đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật. Quang Dũng đã xây một đài kỷ niệm trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và ngư¬ời lính Tây Tiến. • Đoạn 2. Con ng¬ười Tây Bắc duyên dáng và tài hoa • Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con ng¬ười. Cảnh trí miền Tây ở khổ thơ d-ường như¬ đ¬ược tạo hình theo thi pháp truyền thống: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng thi vị giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này đ¬ược xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng. Câu mở đầu đoạn tạo cảm giác đột ngột bừng sáng: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa • “Bừng lên” vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng ng¬ười đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ “bừng lên” “hội đuốc hoa” thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn. “Bừng lên” vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh. • “Hội đuốc hoa” đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra d¬ưới những cánh rừng, ng¬ười đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh t-ượng này trong đêm quả thật nhìn như¬ hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên t¬ưởng, t¬ưởng t¬ượng cho ngư¬ời đọc. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện.”Em” xuất hiện lập tức trở thành trung điểm của mọi điểm nhìn. Kìa em xiêm áo tự bao giờ • “Kìa em” lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sư¬ớng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên tr¬ước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phư¬ơng xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như¬ tràn đầy âm nhạc. Khèn lên man điệu nàng e ấp. • Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với ng¬ười lính Tây Tiến vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Ng¬ời đọc như¬ đ¬ược chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu là “em” tiếp đến là “nàng” rồi sau lại là “em”. Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận đ¬ược em như¬ một nàng tiên kiều diễm và ta nh¬ư lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những ngư¬ời lính Tây Tiến thực sự ngất ngây tr¬ước ng¬ười và cảnh. • Sẽ rất thiếu sót nếu như¬ chúng ta dừng lại ở đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ mới thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo: Ngư¬ời đi Châu Mộc chiều s¬ương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng ng¬ười trên độc mộc Trôi dòng n¬ước lũ hoa đong đưa. • Một không gian bảng lảng khói s¬ương như¬ trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sư¬ơng khói hiện lên nh¬ư một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút. • Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu s¬ương, sông n¬ước bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. “Hồn lau” những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận đư¬ợc hồn lau đang dăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho ngư¬ời thơ xuất hiện: Có nhớ dáng ng¬ời trên độc mộc • Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và ngư¬ời cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như¬ ngây ngất đắm say trư¬ớc cảnh và ngư¬ời. ở đây cảnh như¬ làm duyên với ng¬ười. Trôi dòng n¬ước lũ hoa đong đưa • Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với ng¬ười. Cảnh và ng¬ười hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nư¬ớc độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn. • Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc. Đoạn 3: Ng¬ười lính Tây Tiến hào hùng và hào hoa • Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về ngư¬ời lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức t¬ượng đài về chân dung ng¬ười lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung ng¬ười lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tư¬ởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thư¬ờng. • Chân dung đoàn binh Tây Tiến đ¬ược chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết nh¬ư lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi ng¬ười lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm. • Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân ấy thôi như¬ng khi dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y nh¬ư là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng. • Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác th¬ường của cuộc đời ngư¬ời lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc” da xanh tái. Nh¬ưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi th¬ường tự bên trong phát ra từ tư¬ thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật t-ương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thư¬ờng của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như¬ hình ảnh tráng sĩ tr¬ượng phu một thuở qua hai câu tiếp: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm • “Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây ng¬ười lính Tây Tiến đ¬ược đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này mà chân dung ng¬ười lính sinh động chân thực. Thế như¬ng v¬ượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn ng¬ười lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hư¬ớng về phía trận mạc như¬ng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại h¬ướng về phía sau cũng là h¬ướng về phía tr¬ớc, phía t¬ương lai hẹn ¬ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa. ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến. • Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những ng¬ười chiến binh: Rải rác biên cư¬ơng mồ viễn xứ Chiến tr¬ường đi chẳng tiếc đời xanh áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gần lên khúc độc hành. • “Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đ¬ường hành quân, nh¬ng không thể cản đ¬ược ý chí quyết ra đi của ngư¬ời lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con ng¬ười đứng cao hơn cái chết: Chiến trư¬ờng đi chẳng tiếc đời xanh. • Chính tình yêu quê h¬ương đất nư¬ớc sâu nặng đã giúp ng¬ười lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên nh¬ư giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như¬ một lời thề đúng là cái chết của bậc tr¬ượng phu “áo bào thay chiếu anh về đất” • Nếu nh¬ư ng¬ười tráng sĩ phong kiến thuở tr¬ước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của ngư¬ời lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến tr¬ường. Nó cũng gợi đ¬ược hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trư¬ờng lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói đ¬ược thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của ngư¬ời tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, ng¬ười lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê h¬ương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dư¬ỡng ra mình. Tr¬ước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đ¬ưa. • Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của ngư¬ời lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã. “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” • Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của ngư¬ời tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau th¬ương mà vẫn hùng tráng. • Bốn câu kết: • Bốn câu thơ kết thúc đ¬ược viết như¬ những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân. “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy” • “Mùa xuân” có thể đ¬ược dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất n¬ước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ. • Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đư¬ờng hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý t¬ưởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đ¬ường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm h¬ửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”. • Câu hỏi • Đề . Phân tích bốn câu thơ sau đây trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thư¬ớc lên cao, ngàn thư¬ớc xuống Nhà ai Pha Luông mư¬a xa khơi a)Hai câu thơ đầu: Diễn tả đư¬ợc sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo Tây Bắc (chú ý các từ đầy giá trị tạo hình: khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời). Câu thứ nhất nghe như¬ có hơi thở nặng nhọc của ng¬ười lính. Cách dùng từ “ngửi trời” của câu thơ thứ hai táo bạo, đồng thời có chất tinh nghịch của ng¬ười lính. b)Hai câu thơ sau: Câu thứ ba như¬ bẻ đôi, diễn tả dốc vút lên, đổ xuống gần nh¬ư thẳng đứng. Đọc câu thứ tư¬, có thể hình dung đoàn quân tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ra xa thấy nhà ai thấp thoáng qua một không gian mịt mùng s¬ương rừng mư¬a núi. • Hai câu 3 và 4 phối hợp với nhau tạo ra một âm h¬ưởng đặc biệt (câu thứ 4 toàn thanh bằng). • Có thể liên hệ đến âm hư¬ởng của hai câu thơ của Tản Đà trong bài Thăm mả cũ bên đư¬ờng: “Tài cao phận thấp chí khí uất - Giang hồ mê chơi quên quê h¬ơng” (Tản Đà tả tình, còn Quang Dũng tả cảnh). • Đề 2. Phân tích hình t¬ượng ng¬ười lính Tây Tiến trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến a) Đây là hình t¬ượng tập thể của ngư¬ời lính Tây Tiến. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu của từng ng¬ười lính để tạc nên bức t¬ượng đài tập thể mang tinh thần chung của cả đoàn quân. b) Bốn câu thơ đầu nói về vẻ đẹp lãng mạn của ngư¬ời lính Tây Tiến. Quang Dũng, khi viết về ng¬ười lính Tây Tiến không hề che giấu những khó khăn gian khổ, chỉ có điều, những cái đó đều đ¬ược nhìn bằng con mắt lãng mạn. c) Bốn câu thơ sau nói tới vẻ đẹp bi tráng của ngư¬ời lính Tây Tiến. Cái bi th¬ương ở đây bị mờ đi tr¬ước lí t¬ởng quên mình của ng¬ười lính (Chiến trư¬ờng đi chẳng tiếc đời xanh). Cái sự thật bi thảm những ng¬ười lính gục ngã bên đư¬ờng không có đến cả manh chiếu để che thân đ¬ược vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về đất) và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã. Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc hào hùng để tiễn đ¬ưa linh hồn những ng¬ười lính Tây Tiến: Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gần lên khúc độc hành.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU, NGÔI SAO SÁNG TRONG VĂN NGHỆ CỦA DÂN TỘC (Phạm Văn Đồng) I. Giíi thiÖu chung 1. Tiểu dẫn - Phần tiểu dẫn giới thiệu về tác giả Phạm Văn Đồng a. Tác giả: + Sinh năm 1906 + Quê Đức Tân - Mộ Đức - Quảng Ngãi b. Quá trình tham gia cách mạng: + Tham gia cách mạng từ năm 1925 + Gia nhập hội Việt Nam cách mạng thanh niên đồng chí Hội (1926). + Năm 1927 về nước hoạt động + Năm 1929 bị bắt đày ra Côn Đảo + Năm 1936 ra tù tiếp tục hoạt động + Tham gia chính phủ lâm thời năm 1945 Sau đó tiếp tục giữ chức: Bộ trưởng bộ ngoại giao (1954), Phó thủ tướng, Thủ tướng chính phủ (1955 - 1981). Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (1981 - 1987). Đại biểu quốc hộ từ khoá I đến khoá VII. Mất năm 2001. c. Tác phẩm tiêu biểu: Tổ quốc ta, nhân dân ta và người nghệ sĩ. Trong tác phẩm này có bài viết về: Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh. Và các bài: Hiểu biết, khám phá và sáng tạo để phục vụ Tổ quốc và CNXH (1968), Tiếng Việt một công cụ cực kì lợi hại trong công cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá (1979)… * Kết luận: Phạm Văn Đồng: - Nhà hoạt động cách mạng xuất sắc - Người học trò, người đồng chí thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Một nhà văn hoá lớn - Được tặng thưởng huân chương sao vàng và nhiều huân chương cao quí 2. Văn bản a. Hoàn cảnh, mục đích sáng tác - Bài viết đăng trên tạp chí Văn học số 7 - 1963 nhân kỉ niệm ngày mẩt của Nguyễn Đình Chiểu (3/7/1888) - Năm 1963, tình hình miền Nam có những biến động lớn . Sau chiến thắng Đồng khởi ở toàn miền, lực lượng giải phóng đang trưởng thành lớn mạnh giáng những đòn quyết liệt. Phong trào thi đua ấp bắc giết giặc lập công được phát động ở khắp nơi. Ở các thành thị, học sinh sinh viên kết hợp với nông dân các vùng lân cận xuống đường đấu tranh. Tình thế đó buộc Mĩ - nguỵ thay đổi chiến thuật, chiến lược chuyển từ Chiến tranh đặc biệt sang Chiến tranh cục bộ. Phạm Văn Đồng đã viết bài này trong hoàn cảnh ấy. Đó là hoàn cảnh cụ thể: Mĩ đưa 16000 quân vào miền Nam. Ngoài phong trào học sinh, sinh viên xuống đường biểu tình còn kể tới những nhà sư tự thiêu: hoà thượng Thích Quảng Đức (Sài Gòn 11/6/1963), Tu sĩ Thích Thanh Huệ tại trường Bồ Đề (Huế - 13/8/1963). - Mục đích: + Kỉ niệm ngày mất của nhà văn tiêu biểu, người chiển sĩ yêu nước trên mặt trận văn hoá và tư tưởng. + Tác giả bài viết này có ý nghĩa định hướng và điều chỉnh cách nhìn và chiểm lĩnh tác gia Nguyễn Đình Chiểu. + Từ cách nhìn đúng đắn về Nguyễn Đình Chiểu trong hoàn cảnh nước mất để khẳng định bản lĩnh và lòng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, đánh giá đúng vẻ đẹp trong thơ văn của nhà thơ đất Đồng Nai. Đồng thời khôi phục giá trị đích thực của tác phẩm Lục Vân Tiên. + Thể hiện mối quan hệ giữa văn học và đời sống giữa người nghệ sĩ chân chính và hiện thực cuộc đời + Đặc biệt nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước thương nòi của dân tộc. b. Bố cục - Bài viết chia làm 3 đoạn: + Đoạn 1 từ đầu đến “một trăm năm”. Cách nêu vấn đề: Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này. + Đoạn 2 tiếp đó đến “Còn vì văn hay của Lục Vân Tiên”. Nội dung: - Nguyễn Đình Chiểu một nhà thơ yêu nước. - Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương phản chiếu phong trào kháng Pháp oanh liệt của nhân dân Nam Bộ. - Lục Vân Tiên là tác phẩm có giá trị của Nguyễn Đình Chiểu. + Đoạn 3 (còn lại) - Nêu cao địa vị tác dụng của văn học nghệ thuật. - Nêu cao sứ mạng lịch sử của người chiến sĩ yêu nước trên mặt trận văn hoá tư tưởng. II. Híng dÉn «n tËp. 1. Phần mở bài - Tác giả đưa ra cách nhìn mới mẻ về Nguyễn Đình Chiểu + So sánh liên tưởng văn chương Nguyễn Đình Chiểu như “vì sao có ánh sáng khác thường. Nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn mới thấy, và càng nhìn càng thấy sáng”. Đây là cái nhìn khoa học và có ý nghĩa như một định hướng tìm hiểu về văn chương Nguyễn Đình Chiểu. + Nhận định: “Văn chương thầy Đồ Chiểu không phải là thứ văn hoa mĩ, ông chuốt, cũng không phải là vẻ đẹp của cây lúa xanh uốn mình trong gió nhẹ, mà là vẻ đẹp của đống thóc mẩy vàng” (Văn 11, NXB Giáo dục, 1996). Đó là thứ văn chương đích thực. Cho nên đứng về một vài điểm hình thức, câu thơ chưa thật chuốt, thật mượt mà đánh giá thấp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. + Mặt khác “có người chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của cuốn Lục Vân Tiên và hiểu về Lục Vân Tiên cũng khá thiên lệch về nội dung và văn, còn ít biết về thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, khúc ca hùng tráng của phong trào yêu nước chống bọn xâm lược Pháp lúc chúng đến bờ cõi nước ta cách đây 100 năm”. + Câu mở đầu: “Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ dân tộc, nhất là trong lúc này”. Đây là luận điểm của phần đặt vấn đề. - Phạm Văn Đồng vừa đặt vấn đề bằng cách chỉ rõ định hướng tìm hiểu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, vừa phê phán một số người chưa hiểu Nguyễn Đình Chiểu, vừa khẳng định giá trị thơ văn yêu nước của nhà thơ chân chính Nguyễn Đình Chiểu. Đây là cách vào đề phong phú, sâu sắc vừa thể hiện phương pháp khoa học của Phạm Văn Đồng. 2. Phần thân bài - Phần thân bài tác giả trình bày nội dung: + Một là vài nét về con người của Nguyễn Đình Chiểu và quan niệm sáng tác. Luận điểm là: “Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước mà tác phẩm là những trang bất hủ ca ngợi cuộc chiển đấu oanh liệt của nhân dân ta chống bọn xâm lược phương Tây ngay buổi đầu chúng đặt chân lên đất nước chúng ta”. Để làm rõ luận điểm này tác giả đưa ra những luận cứ: + Sinh ra trên đất Đồng Nai hào phóng. + Triều đình nhà Nguyễn cam tâm bán nước, khắp nơi nổi dậy hưởng ứng chiếu Cần Vương + Bị mù cả 2 mắt, Nguyễn Đình Chiểu viết thơ văn phục vụ cuộ chiến đấu của đồng bào Nam Bộ ngay từ những ngày đầu. + Thơ văn còn ghi lại tâm hồn trong sáng và cao quí của Nguyễn Đình Chiểu. + Thơ văn ghi lại lịch sử thời khổ nhục nhưng vĩ đại. + Cuộc đời và hoạt động của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương anh dũng. + Đất nước và cảnh ngộ riêng càng long đong thì khí tiết càng cao: Sự đời thà khuất đôi tròng thịt Lòng đạo xin tròn một tấm gương + Cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là của một chiến sĩ luôn hi sinh phấn đấu vì nghĩa lớn. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là thơ văn chiến đấu, đánh thẳng vào giặc ngoại xâm và tôi tớ của chúng: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà + Với Nguyễn Đình Chiểu cầm bút viết văn là một thiên chức. Ông khinh miệt những kẻ lợi dụng văn chương để làm việc phi nghĩa: Thấy nay cũng nhóm văn chương Vóc dê da cọp khôn lường thực hư - Luận điểm đưa ra có tính khái quát bao trùm. Luận cứ bao gồm những lí lẽ và dẫn chứng cũng rất cụ thể, tiêu biểu, có sức cảm hoá. Nó giúp người đọc hiểu đúng, hiểu rõ, hiểu sâu sắc vấn đề. - Luận điểm hai của phần thân bài là: “Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu làm sống lại trong tâm trí của chúng ta phong trào kháng Pháp oanh liệt và bền bỉ của nhân dân Nam Bộ từ năm 1860 về sau, suốt 20 năm trời”. + Tái hiện lại một thời đau thương và khổ nhục nhưng vô cùng anh dũng của dân tộc (Nguyễn Tri Phương thua ở Sài Gòn, Tự Đức vội vã đầu hàng. Năm 1862 cắt 3 tỉnh miền Đông và năm 1867 cắt ba tỉnh miền Tây cho giặc. Mặc dù vậy nhân dân Nam bộ đã vùgn lên làm cho kẻ thù phải khiếp sợ và khâm phục). + Phần lớn thơ văn của thầy Đồ Chiểu là những bài văn tế ca ngợi những người anh hùng tận trung với nước và than khóc những người liệt sĩ đã trọn nghĩa với dân. Đặc biệt người nghĩa sĩ nông dân chỉ biết cuốc cày đã trở thành anh hùng cứu quốc (Bớ các quan ơi, chớ thấy chín trùng hoà nghị mà tấm lòng dịch khái nỡ phôi phai, cho rằng ba tỉnh giao hoà mà cái việc cứu thù đành lơ đảng! Bớ các làng ơi! chớ thấy đồn luỹ dưới Gò Công thất thủ mà trở mặt hại nhau, chớ nghe bảo trên Bến Nghé phân cơ mà đành lòng theo mọi! Hỡi ơi, oán nhường ấy, hận nhường ấy, cừu thù nhường ấy làm sao trả đặng mới ưng! Công bấy lâu, nghiệp bấy lâu, lao khổ bấy lâu, bao đành bỏ qua sao phải?) Đọc lại nhiều đoạn trong bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc * “Hỡi ôi! Sóng giặc đất rền; Lòng dân trời tỏ” * “Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ” + So sánh văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc với Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Hai bài văn: hai cảnh ngộ, hai thời buổi nhưng một dân tộc. Tác phẩm của Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn ca ngợi những chiến công oanh liệt chưa từng thấy, biểu dương chiến thắng làm rạng rỡ nước nhà. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc cac những người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang: “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc muôn kiếp nguyện được trả thù kia”. + Trong thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu còn có những đoá hoa, hòn ngọc rất đẹp (Xúc cảnh): “Hoa cỏ… trời chung” + Phong trào kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ lúc bấy giờ làm nảy nở nhiều nhà văn, nhà thơ: Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Văn Lạc, Nguyễn Hữu Huân, Hồ Huân Nghiệp… - Văn viết rõ ràng, lí lẽ đưa ra có dẫn chứng đầy đủ. Đó là cách lập luận chặt chẽ, làm cho người đọc, người nghe lĩnh hội được vẻ đẹp đáng trân trọng, kính phục con người và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Bởi lẽ Nguyễn Đình Chiểu là nhà nho yêu nước tiêu biểu, tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, trọng đạo lí. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là vũ khí chiến đấu chống bọn xâm lược và là bài ca chính nghĩa, ca ngợi đạo đức ở đời. Tất cả kết hợp tình cảm nồng hậu của Phạm Văn Đồng đối với Nguyễn Đình Chiểu để bài viết giàu tính thuyết phục. - Lục Vân Tiên là tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Đình Chiểu rất phổ biến trong dân gian nhất là ở miền Nam. + Ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quí trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa. * Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Vương Tử Trực, Hớn Minh, Tiểu Đồng là những người đáng kính, đáng yêu, trọng nghĩa khinh tài, mặc dầu khổ cực gian nguy, quyết phấn đấu vì nghĩa lớn. - Họ đấu tranh chống mọi giả dối bất công và họ đã chiến thắng. - Về văn chương của Lục Vân Tiên, đây là “một chuyện kể”, “chuyện nói”, lời văn “nôm na”, dễ hiểu, dễ nhớ, truyền bá rộng rãi trong dân gian. - Tác giả bày tỏ ý kiến chưa hiểu đúng về truyện Lục Vân Tiêu do hoàn cảnh thực tế (bị mù, nhờ người viết) nên “tam sao thất bản”. 3. Phần kết bài - Luận điểm là “đời sống và sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác động của văn học nghệ thuật, sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá và tư tưởng”. Thực chất là rút ra bài học sâu sắc: + Đôi nén hương lòng tưởng nhớ người con quang vinh của dân tộc (nhắc nhở). + Mối quan hệ giữa văn học và đời sống. + Vai trò của người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá tư tưởng
THÔNG ĐIỆP NHÂN NGÀY THẾ GIỚI PHÒNG CHỐNG AIDS 01 – 12 - 2003 Cô-phi An-nan I. Giíi thiÖu chung 1. Tiểu dẫn - Giới thiệu về tác giả bài viết Cô-phi An-nan + Tác giả: sinh ngày 8/4/1938, tại Ga-na, một nước cộng hoà thuộc châu Phi. + Quá trình hoạt động: Bắt đầu làm việc ở tổ chức Liên hợp quốc từ năm 1962. Năm 1966 được giữ chức Phó tổng Thư kí Liên hợp quốc phụ trách gìn giữ hoà bình. Từ 1/1/1997, Cô-phi An-nan là người châu phi đầu tiên được bầu làm Tổng thư kí Liên hợp quốc. Ông đảm nhiệm chức vụ này hai nhiệm kì liền cho tới tháng 1/2007 (10 năm). Cô-phi An-nan đã ra Lời kêu gọi hành động gồm 5 điều về việc đấu tranh với đại dịch HIV/AIDS và kêu gọi thành lập quĩ sức khoẻ và AIDS toàn cầu vào tháng 4/2001. Cô-phi An-nan đóng vai trò chủ chốt trong việc khởi động công cuộc chống khủng bố trong phạm vi toàn thế giới thông qua Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Do những đóng góp vào việc xây dựng “một thế giới được tổ chức tốt hơn và hoà bình hơn” nên Cô-phi An-nan được trao giải thưởng Nôben hoà bình. Ông cũng nhận được nhiều bằng cấp danh dự ở các trường đại học Châu Phi, Châu Á, Âu, Bắc Mĩ, cùng nhiều giải thưởng khác. 2.Văn bản a. Hoàn cảnh và mục đích của văn bản - Cô-phi An-nan viết văn bản này gửi nhân dân toàn thể giới nhân ngày thế giới phòng chống AIDS 1/12/2003. - Trong khi dịch HIV/AIDS hoàn thành, có ít dấu hiệu suy giảm. Nhất là các nước Đông Âu, toàn bộ châu Á, từ dãy núi U-Ran đến Thái Bình Dương. - Mục đích kêu gọi các nhân và mọi người chung tay góp sức ngăn chặn hiểm hoạ, nhận thấy sự nguy hiểm của đại dịch này. - Triển khai chương trình chăm sóc toàn diện ở mọi nơi. - Các quốc gia phải đặt vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị. b. Thể loại - Nhật dụng dùng để chỉ loại văn đề cập tới những hiện tượng, vấn đề cụ thể có ý nghĩa quan trọng, bức xúc đặt đang đặt ra trước mắt con người trong cuộc sống thường ngày. Vì thế đây là một văn bản nhật dụng. - Thông điệp: là những lời thông báo mang ý nghĩa quan trọng đối với nhiều người, nhiều quốc gia, dân tộc. c. Bố cục Bài văn chia làm 3 đoạn: + Đoạn 1: Từ đầu đến “chiến đấu chống lại dịch bệnh này” - Nội dung: cả thế giới nhất trí, cam kểt, phòng chống, chiến đấu, đánh bại căn bệnh HIV/AIDS + Đoạn 2: Tiếp đó đến “đồng nghĩa với cái chết” Có hai ý chính: một là điểm lại tình hình thực tế, hai là nhiệm vụ của mỗi người, mọi người, mọi quốc gia. + Đoạn 3: còn lại. Lời kêu gọi thiết tha. d. Hiểm họa - Thông điệp nêu rõ hiểm hoã HIV/AIDS. Đồng thời nhấn mạnh phòng chống HIV/AIDS phải là sự quan tâm của toàn nhân loại, có chương trình cụ thể, đặt lên hàng đầu. Ông kêu gọi các quốc gia và mọi người coi đó là nhiệm vụ của chính mình, không nên im lặng, kì thị, phân biệt đối xử với những người nhiễm HIV/AIDS. II. Híng dÉn «n tËp. - Ngoài những từ: dịch, đại dịch, hiểm hoạ để gọi HIV/AIDS, người ta còn gọi căn bệnh này là “căn bệnh thế kỉ”. Điều ấy đặt ra vấn đề muốn tiêu diệt căn bệnh này phải có hành động thiết thực, lâu dài gian khổ. Đó là căn bệnh nguy hiểm, cướp đi sinh mạng của hàng loạt con người a. Điểm tình hình của văn kiện - Căn cứ vào tình hình thực tế: + 1/4 số thanh niên bị nhiếm HIV ở các nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất “trong số những người bị nhiếm hiv thì một nữa là phụ nữ”. + ¼ số trẻ sơ sinh bị nhiễm. Cứ một phút một trôi qua có 10 người nhiễm Hiv. + Khi thông điệp này viết ra (2003) thì sự cố gắng của mọi người, mọi quốc gia chưa đủ. Vì thế thông điệp dự đoán “chúng ta sẽ không đạt được bất cứ mục tiêu nào năm 2005”. + Có hiện tượng một số nước trên thế giới cho rằng sự cạnh tranh lúc này là có nghĩa quan trọng và cấp bách hơn thảm họa HIV/AIDS. + Nhân loại phải cố gắng nhiều hơn nữa để tạo được nguồn lực, hành động cần thiết ngăn ngừa, dập tắt đại dịch HIV/AIDS. Vì những lí do trên đây. Bản thông điệp nhấn mạnh “Chúng ta phải đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và hành động thực tế” đối với các quốc gia. b. Phần nêu nhiệm vụ - Cô-phi An-nan nhấn mạnh nhiệm của mỗi người, mỗi quốc gia + Chúng ta không vì cac mục tiêu trong sự cạnh tranh mà quên các thảm họa cướp đi cái đáng quí nhất là sinh mệnh và tuổi thọ của con người. + Loài người hãy lên tiếng chống lại HIV/AIDS. Đó là ý nghĩa sinh tử, tồn vong “sống hay không sống”. + “Hãy sát cánh cùng tôi, bởi lẽ cuộc chiến tranh chống lại HIV/AIDS bắt đầu từ chính các bạn”. + Bỏ thái độ kì thị, phân biệt đối xử với những người không may mắc bệnh HIV/AIDS. “Chúng ta còn bị chậm hơn nữa nếu sự kì thị và phân biệt đối xử vẫn tiếp tục diễn ra đổi với những người chung sống với HIV/AIDS”. - Những nhiệm vụ đặt ra trong bản thông điệp đều xuất phát từ tấm lòng nhân ái của tác giả. Đó là sự quan tâm, yêu thương đồng loại của mình. Chính cái tâm ấy đã làm nên sự đặc sắc của văn bản. Những lời kêu gọi tha thiết ở cuối bài giảng khẳng định tấm lòng ấy, phẩm chất ấy. - Đó là đoạn: “Nhưng cũng chính trong lúc này… mục tiêu vào năm 2005”. Đây là đoạn văn tác giả đặt tất cả những xúc cảm chân thành. Ta như nghe thấy nhịp đập của trái tim đang ngày đêm lo lắng và bức xúc. Năm tiếng “lẽ ra chúng ta phải” trở đi trở lại tới ba lần như nỗi day dứt, xót xa đến khôn nguôi của người cầm bút. Viết văn nghị luận cần có cách viết ấy. - Tình hình cụ thể được cung cấp một cách chọn lọc, rất kịp thời: “Nhưng cũng chính trong lúc này… HIV/AIDS đang lây lan với tốc độ báo động ở phụ nữ. Giờ đây phụ nữ đã chiếm một nữa trong tổng số người bị nhiễm trên toàn thế giới. Bệnh dịch này đang lan rộng nhanh nhất ở chính những khu vực mà trước đây hầu như vẫn còn an toàn - đặc biệt ở Đông Âu và toàn bộ châu Á, từ dạy U-Ran đến Thái Bình Dương”. - Có những câu văn gọn mà độc đáo: “Trong thế giới đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết”. Có những câu tạo ra hình ảnh gợi cảm: “Hãy cùng tôi giật đổ các thành luỹ của sự im lặng, kì thị và phân biệt đối xử đang vây quanh bệnh dịch này”. Lại có những câu vẫn tạo được độc đáo và giàu hình ảnh gợi cảm: “Hãy đừng để một ai có ảo tưởng rằng chúng ta có thể bảo vệ được chính mình bằng cách tạo ra các bức rào giữa ta và họ. Trong thế giới AIDS khốc liệt này không có khái niệm chúng ta và họ”. c. Ý nghĩa của thông điệp - Bản thông điệp là tiếng nói kịp thời trước một nguy cơ đang đe dọa đời sống của loài người. Nó thể hiện thái độ sống tích cực, một tinh thần trách nhiệm cao, tình yêu thương nhân loại sâu sắc. - Thông điệp giúp người đọc, người nghe biết quan tâm tới hiện tượng đời sống đang diễn ra quanh ta để tâm hồn, trí tuệ không nghèo nàn, đơn điệu và biết chia sẻ, không vô cảm trước nỗi đau con người. - Từ đó xác định tình cảm, thái độ hành động của mình
Chữ ký của Mr_VipGangster
Đề cương ôn thi tốt nghiệp Ngữ văn 12. P2
Trang 1 trong tổng số 1 trang
* Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc. * Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết. * Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình.
...-Nếu chèn smilies có vấn đề thì bấm A/a trên phải khung viết bài-...